CÁC LOẠI BIA TRÊN THẾ GIỚI
hàng chôm trên mạng, nguồn ở đây thebeerstores.com
Trên thế giới hiện nay có rất nhiều phong cách bia, nhìn chung được phân chia từ 2 loại cơ sở: Bia Ale và bia Lager.
ALE.
Khái niệm ALE là tên cho một tập hợp các loại bia lên men nổi, ở nhiệt độ xấp xỉ nhiệt độ phòng, thường là từ 60 đến 70oF.
Trong quá trình lên men, nấm men của bia Ale nổi trên bề mặt nên mới có
thuật ngữ “lên men nổi”. Ở nhiệt độ nói trên, nấm men sản sinh ra một
lượng dồi dào các chất như este, anđêhit – những chất làm cho bia Ale
mang hương thơm trái cây đặc trưng. Phần lớn bia ALE có màu nâu đỏ,
hương vị khá đa dạng, thường là đắng cho đến hơi ngọt, có khi hơi chua.
Đa số các loại bia hiện nay trên thế giới được sản xuất theo phương pháp
lên men nổi, ALE cũng là một kiểu bia lên men nổi tiêu biểu.
LAGER.
Lager
là tên tiếng Anh dùng cho các loại bia lên men lạnh có nguồn gốc từ
vùng Trung Âu. Pale Lager là những loại bia phổ biến nhất được tiêu thụ
trên toàn thế giới. Cái tên "lager" xuất phát từ tiếng Đức "lagern"(lưu
trữ). Những người làm bia quanh khu vực Bavaria trữ bia trong các hầm và
các hang động mát mẻ trong những tháng hè. Họ nhận thấy rằng các loại
bia vẫn tiếp tục lên men khi được lưu trữ trong điều kiện mát mẻ.
Bia
lager là loại bia lên men chìm, thông thường được lên men ở nhiệt độ
7-12°C (45-55°F) ("pha lên men"), và sau đó được lên men thứ cấp lâu ở
0-4°C (30-40°F) ("pha lager hóa"). Trong giai đoạn lên men thứ cấp,
lager được làm trong và chín. Các điều kiện lạnh cũng kiềm chế việc sản
xuất tự nhiên các este và các phụ phẩm khác, tạo ra hương vị bia "sạch"
hơn. Với việc cải thiện các chủng nấm men hiện đại, các nhà máy sản xuất
bia lager đã rút ngắn công đoạn lên men lạnh xuống còn khoảng 1-3 tuần.
ABBEY ALE.
Một
loại bia Ale Bỉ mạnh, có màu tối, giàu hương vị, được ủ theo phong cách
từ các tu viện với công thức có từ lâu đời. Độ mạnh của bia cũng đa
dạng, từ enkel (cấp độ 1) đến quadruple (gấp 4 lần).
ALT (Ale).
Là
một bia nguồn gốc Đức, sống sót qua thời kỳ chuyển hướng sang các loại
bia lên men chìm. Vì vậy cái tên này còn có ý nghĩa là cổ, loại bia này
là loại bia lên men nổi và trải qua 3 đến 8 tuần ủ lạnh. Phần lớn bia
này có màu đồng sậm nhưng cũng có cả màu sáng. Bia tương đối nhẹ, hơi
đắng và thường có phảng phất hương vị của mạch xay. Loại bia này tập
trung ở Dusseldorf của Đức
AMBER ALE.
Đây
là một khái niệm người Mỹ sử dụng để gọi tên các dòng bia ALE có màu
sắc từ vàng nhạt cho đến đỏ sẫm, được lên men chậm. Hiệp hội các nhà sản
xuất bia mô tả đây là loại bia mang đậm hương vị hoa bia.
AMBER LAGER.
Đây
là một khái niệm khá mơ hồ về loại bia Lager của mỹ có độ mạnh trung
bình. Bia thường có màu vàng nhạt đến màu hổ phách nhạt, hương vị hoa
bia nhẹ.
AMERICAN ALE.
Một loại bia lên men nổi giống bia Lager nhưng hương vị mạnh hơn, đa dạng hơn. Bia có màu sắc từ vàng óng đến nâu sẫm.
BARLEY WINE (Ale).
Một
loại bia Ale rất mạnh, với nồng độ cồn từ 8% trở lên. Bia thường có màu
hổ phách đến nâu, trong quá trình nấu sử dụng hàm lượng hoa bia cao.
Quá trình ủ bia trong hầm càng lâu thì càng ngon.
BIA NẤU VLAM- BỈ
Đây
lạ loại bia lên men nổi đặc biệt từ Bỉ . Bia có màu nâu đỏ, thời gian ủ
lâu tới một năm hoặc hơn và pha trộn với bia non. Thời gian ủ trong
thùng gỗ sồi làm cho bia thêm hương vị ngọt nhẹ nhàng. Độ cồn khoảng 5%
BITTER (Ale).
Đây
là loại bia cổ điển, được người Anh uống mỗi ngày. Bia có màu sắc từ
vàng đến hổ phách, nồng độ cồn từ mức thấp đến vừa phải và khá đắng. Bia
có ga nhẹ.
BOK (hay BOCK) (Lager).
Định
nghĩa BOK được lấy từ Einbeck của Đức, bia BOK hay BOK đôi (dubblebok)
là bia lên men chìm, nó có độ cồn cao và phần lớn được đặc trưng bởi vị
ngọt của Malt. Các loại bia kiểu BOK (thường được viết tắt là BOK hay
BOCK) thường được bán theo mùa. Ở Đức người ta thường ủ loại bia này vào
mùa đông để có sản phẩm phục vụ cho mùa xuân.
BROWN ALE.
Đây
là loại bia Ale phong cách Anh, được chia thành hai dạng: Dạng bia của
phía Bắc nước Anh thường có màu đỏ với hương trái cây hoặc hương vị hấp
dẫn, trong khi dạng bia nấu ở phía Nam nước Anh thường có màu sậm hơn,
ngọt hơn theo khẩu vị của người dân nơi này.
CREAM ALE.
Đây là một phong cách bia Ale của Mỹ, với đặc trưng là vị hoa bia tinh tế, thường được ủ lạnh giống các loại bia ALT.
DARK LAGER.
Đây
là một loại bia lager có độ mạnh vừa phải, hàm lượng hoa bia sử dụng
rất ít, màu từ hổ phách cho đến nâu. Bia nổi bật bởi đặc trưng là vị
malt cháy.
DORTMUNDER (Lager).
Phong
cách bia này có nguồn gôc từ thành phố Dortmund của Đức. Bia có màu
vàng nhạt và mạnh hơn những loại bia lager khác của Đức. Dortmunder khác
với Pilsener là màu sậm hơn, ít hoa bia hơn, êm hơn và vị đậm hơn. Ở
Dortmund của Đức nơi sản xuất bia này, nó được gọi là bia Export. Ở Hà
Lan sử dụng tên viết tắt là DORT, nhưng ở đây loại bia này ngọt hơn và
độ cồn lớn hơn.
DRY LAGER.
Đây là một phong cách bia với toàn bộ các hydrat cacbon được lên men, tạo ra một loại bia nhạt hơn, có ít dư vị hơn.
DUNKEL.
Một loại bia lager đậm đà, được ướp với hoa bia, vị đắng, màu sắc từ đỏ đậm đến đen.
FARO (Ale).
Đây
là tên gọi của bia Lambic khi người ta cho thêm đường vào để bia bị
chua sẽ ngọt trở lại. Những loại bia trộn giữa Lambic và bia ngọt lên
men nổi cũng gọi là FARO.
FRAMBOISE (Ale).
Đây là một loại bia lambic hoặc bia Ale bỉ màu nâu vị chua, trong đó quá trình ủ bia có bổ sung quả mâm xôi.
FRUIT BEER.
Loại
bia này là một tập hợp các loại bia phần lớn từ Bỉ, mà trong thành phần
được bổ sung thêm một lượng hoa quả tương đối. Loại bia cơ sở là
Lambic, nhưng phần lớn là Gauze hoặc một loại bia lên men nổi thông
thường. Người nấu thường cho thêm anh đào, dâu, những nguồn hoa quả
tương đối phong phú: táo, chuối hoặc đào. Hương vị giữa các loại bia hoa
quả thường rất khác nhau.
GUEUZE.
Nếu
chúng ta trộn bia Lambic cũ và mới, đóng vào chai thì sẽ xuất hiện một
hỗn hợp tiếp tục phát triển thành bia tươi mát hơn cả Lambic ban đầu,
loại bia này gọi là bia trộn. Loại bia này thường có ở Bamberk và vùng
lân cận ở Đức, bia kiểu này còn được nấu ở Scotlen, Pháp và Alaska.
HEFE.
Đây
là loại wheat beer không lọc, nước bia đục, bia được đóng chai cùng với
nấm men. Bia có hương vị chủ yếu là cam, quýt hoặc cây đinh hương.
HERB & SPICE BEER.
Đây là một loại bia mà trong quá trình nấu người ta đã thay hoa bia bằng các loại gia vị và thảo mộc.
ICE BEER.
Được sản xuất rộng rãi tại Hoa Kỳ, loại bia này có nồng độ cồn cao hơn do sự đóng băng trong quá trình sản xuất.
IMPERIAL STOUT (Ale).
Loại
bia này có hương vị và nồng độ cồn rất mạnh. Loại bia này ban đầu được
tạo ra để xuất khẩu đến những khu vực bị đóng băng ở Nga. Bia có màu rất
tối hoặc màu đen, vị rất mạnh.
INDIA PALE ALE.
Loại
bia ale này được người Anh phát triển để có thể đảm bảo được những hành
trình dài từ Anh đến Ấn Độ. Bia có màu đồng sẫm và có hương vị hoa bia.
KELLERBIER / ZWICKELBIER
Đây
là một phong cách bia của Đức khá cũ, hiếm và độc đáo. Kellerbiers là
loại bia Lager không lọc, không thanh trùng, có nguồn gốc từ thời Trung
Cổ. Bia có màu đục do có chứa nhiều vitamin từ nấm men. Bia có thể hơi
nặng vị đắng từ hoa bia. Zwickelbier là một cách gọi khác của
Kellerbier.
KRIEK (Ale).
Đây là một biến thể của bia lambic, được tạo ra nhờ sự bổ sung thêm quả anh đào chua.
LAMBIC (Ale).
Lambic
là sản phẩm khá đặc biệt trong các loại bia. Đó là loại bia được tạo ra
bằng cách lên men từ từ trong môi trường tự nhiên, vì vậy nó có thể
được xem là tổ tiên của tất cả các loại bia. Loại men cần thiết cho sản
xuất Lambic có ở Zennevalle, gần Brussells. Lambic được nấu với 30% lúa
mỳ, vị bia hơi chua, được ủ lâu trong thùng gỗ sồi. Nồng độ rượu thấp, ở
dạng nguyên thủy có rất ít người yêu thích. Phần lớn được cho thêm
đường hoặc làm giàu bằng hoa quả.
LIGHT LAGER.
Là loại bia mạnh, hàm lượng calo thấp. Bia có nguồn gốc là bia pilsner Mỹ, màu nhạt và hương vị hoa bia nhẹ.
MAIBOCK (Lager).
Một loại bia khá rõ nét vị đắng của hoa bia, đây là dạng nhạt hơn của bia Bock.
MALT LIQUOR.
Đây là một dạng của Ameriacn lager nhưng mạnh hơn.
MUNCHENER
Munchener
(bia Muynich) là bia lên men chìm kiểu Bavaria, bao gồm cả bia sáng lẫn
bia sậm màu. Bia sậm màu ở Đức quen gọi là DUNKEL. Munchener là loại
bia nhẹ từ đại mạch với vị trung tính.
MUNICH HELLES (Lager).
Phổ biến ở phía nam nước Đức, loại bia lager màu vàng óng này có độ mạnh vừa phải và hương vị hoa bia nhẹ.
NON-ALCOHOLIC BEER.
Đây là loại bia không cồn. Cồn thương được loại bỏ bằng phương pháp chưng cất bay hơi hoặc các biện pháp công nghiệp khác.
PALE ALE.
Bia
có màu từ vàng đến màu đồng. Phiên bản châu Âu thường có vị malt đậm
hơn trong khi phiên bản của châu Mỹ thường đậm hương vị hoa bia hơn. Cả
hai phiên bản có thể có hương vị trái cây.
PALE LAGER.
Đây là loại bia lager chủ đạo của Mỹ cũng như của quốc tế. Bia thường được làm từ ngô hoặc gạo.
PECHE (Ale).
Một biến thể của bia lambic với sự bổ sung của quả đào.
PILSNER (Lager).
Pilsener
có nguồn gốc từ Plzen (Pilsen) - CH Séc. Loại bia này đặc trưng là bia
lên men chìm với hương vị hoa bia đậm đà rõ nét và ngọt êm dịu. Độ cồn
khoảng 4,5% - 5%. Dù rằng kiểu gốc Pilsener và hàng loạt loại bia phong
cách đó khá đậm đà, nhưng hiện tại Pilsener phần lớn là bia trung tính
nhẹ nhàng hơn. Ngày nay trên thế giới rất nhiều hãng nấu bia, gọi bia
của mình là Pilsener, Pils, Pilsner. Nhưng ngoài việc lên men đáy, có
màu sáng, hầu như chẳng có gì liên quan đến loại bia Plzen gốc.
RAUCHBIER (Lager).
Một loại bia mang hương vị của khói được làm từ mạch nha.
SCOTTISH ALE.
Bia
ALE Scotlen thường đậm đà và tròn vị hơn, phần lớn có mầu sậm, ngọt và
có hương vị của đại mạch. Có nhiều kiểu bia Scotland nhưng lại là sản
phẩm của Bỉ.
STEAM BEER.
Một phong cách bia đặc thù của Mỹ, được tạo ra ở California.
STOUT (Ale).
STOUT
thường là loại bia mạnh. Những loại này thường có màu đen sậm và hương
vị Malt cháy. Vị của bia Stout khá đa dạng, có thể đắng, ngọt hoặc có vị
“khô”.
TRAPPIST.
Trên
giới hiện tại còn 7 hãng bia Trappist. Ở Bỉ chỉ có 6 hãng bia được mang
nhãn Trappist tức là bia do các tu sĩ làm ra. Chúng gồm có Chimay,
Orval, Rochefort, Westmalle, Westvleterent và Achel. Ở Hà Lan có 1 hãng
là La Trappe. Ngoài ra, không còn bất kỳ hãng bia nào khác được mang tên
Trappist. Rất nhiều người tiêu dùng thường nhầm lẫn tên gọi này, ví dụ
như Leffe không phải là bia trappiste mà là bia “abbaye” tức là bia của
tu viện.
Nguyên
tắc của bia Trappist là được sản xuất ngay tại tu viện, vì thế mà người
ta hay gọi là bia thầy tu. Các thầy tu, ngoài những việc như đọc kinh,
cầu nguyện, họ còn tự sản xuất bia, phomát, các sản phẩm từ thịt, bánh
mì và rau quả. Nhờ những việc sản xuất này mà các tu sĩ có thể đảm bảo
lương thực cho cuộc sống của họ. Ngoài ra, khoản tiền thu được từ kinh
doanh sản phẩm được họ sử dụng cho các công tác xã hội.
Bia
thầy tu có độ rượu cao (6-12°), màu vàng hoặc nâu, lên men trong chai,
vị đắng nhẹ và vị của malt sấy ở nhiệt độ cao. Hiện có khoảng 20 nhãn
bia Trappist khác nhau.
TRIPEL
Là
loại bia mà trong quá trình nấu người ta sử dụng lượng mạch nha gấp 3
lần so với lượng mạch nha sử dụng để nấu 1 loại bia Trappist thông
thường. Bia Tripel thường có màu vàng tối hơn màu vàng của bia Pilsener.
Nồng độ cồn của loại bia này thường nằm ở mức 8-12%.
WHEAT BEER.
Đây
là một thuật ngữ dùng chung cho những loại bia làm từ malt lúa mỳ, được
ủ với tỷ lệ lúa mì cao. Bia từ lúa mỳ có nguồn gốc từ Bỉ và nấu từ lúa
mỳ với việc cho thêm gia vị, cây cỏ, vỏ cam. Loại bia này có vị ngọt hơi
chua và có cảm giác của gia vị, màu đục. Bia loại này theo kiểu Đức nấu
từ lúa mỳ đã đường hóa không cho thêm gia vị. Từ kiểu bia này có những
loại bia với men bia đục và những loại bia lọc trong. Bia từ lúa mỳ
không nhất thiết phải sáng, là loại bia tươi mát và hơi chua.
WEIZEN (Ale).
Đây là loại wheat beer có nguồn gốc từ Bavaria. Bia có màu vàng và thường mang hương vị của hoa bia.
WITBIER or WHITE BEER (Ale).
Một
phong cách bia có nguồn gốc từ Bỉ, được gọi là bia trắng do bia bị đục
chứ không trong suốt. Hiện tượng này là do bia không được lọc làm cho nó
có nhiều nấm men gây đục. Bia trắng có hàm lượng lúa mì cao, đôi khi là
yến mạch, được sử dụng trong quá trình ủ bia. Bia thường mang hương vị
từ rau mùi, vỏ cam và các loại gia vị khá lạ, hoặc các loại thảo mộc.
Đây là một trong những phong cách bia mà các nhà sản xuất bia ở Mỹ khá
quan tâm.
No comments:
Post a Comment