Khi thí
nghiệm xác định đặc tính biến dạng hay đàn hồi của đá, thông thường chúng ta sử
dụng thí nghiệm nén đơn trục. Đường quan hệ giữa ứng suất và biến dạng thu được
từ thí nghiệm sẽ là cơ sở để xác định các thông số cơ học của đá. Đối với các
vật liệu đàn hồi lý tưởng, đường quan hệ có dạng tuyến tính. Trong những trường
hợp đó, mô đun đàn hồi được xác định đơn giản là độ dốc của đường ứng suất –
biến dạng hay cũng là tỷ số giữa ứng suất và biến dạng. Đối với đá, do bản chất là vật liệu tự nhiên
được hình thành tồn tại trong các điều kiện khác nhau nên các biểu hiện của các
đá khác nhau khi nén sẽ không giống nhau và ít khi có dạng tuyến tính hoàn hảo như
đối với vật liệu đàn hồi lý tưởng. Biểu hiện của đá khi nén có xu hướng thiên
về đàn hồi phi tuyến. Các nghiên cứu cho thấy, đường cong nén có thường dạng
phi tuyến.
Với đa số
loại đá, khi thí nghiệm dỡ tải, đường cong quan hệ giữa ứng suất và biến dạng
không trùng nhau, đồng thời thường thấy mẫu đá có một lượng biến dạng không hồi
phục (biến dạng dư). Khi quá trình nén và dỡ tải lặp đi lặp lại nhiều lần thì
đường cong nén có xu hướng dịch chuyển dần sang bên phải. Hình 1.
Hình 1.
Quan hệ ứng suất biến dạng của đá khi nén một trục. Theo Miller (1965)
Biểu hiện
phi tuyến của đá khi nén một trục là do sự có mặt của các vi khe nứt và lỗ rỗng
trong mẫu đá. Những vi khe nứt này ban đầu mở, khi ứng suất tăng lên thì các vi
khe nứt dần khép lại, vật liệu đá trở nên cứng hơn và do đó mô đun đàn hồi tăng theo ứng suất. Thông thường, các
vi khe nứt và lỗ rỗng trong đá sẽ khép kín lại khi ứng suất đạt một giá trị nhất
định, thường giá trị ứng suất này không lớn. Sau đó, khi ứng suất vượt quá giá
trị này thì quan hệ ứng suất biến dạng trở thành tuyến tính.
Sự trễ đàn
hồi trong các đá kết tinh được giải thích là do ma sát giữa các mặt của vi khe
nứt. Do có ma sát mà các vi khe nứt mà xảy ra trượt khi nén sẽ khong trượt ngay
lập tức khi mà tải trọng giảm.
Khi nén
mẫu đến phá hoại, theo nghiên cứu của Miller (1965) thu được từ thí nghiệm nhiều
loại đá khác nhau, có 6 dạng biểu đồ ứng suất biến dạng điển hình, đặc trưng
cho các loại đá. Hình 2.
Loại I. Quan hệ giữa ứng suất và
biến dạng có dạng tuyến tính, đặc trưng của vật liệu giòn. Đây cũng là đặc
trưng cho các đá có phá hoại nổ vỡ như đá bazan, quắc zít, diaba, đolomit hay
đá vôi cứng.
Loại II: đường quan hệ ứng suất biến
dạng đặc trưng cho ứng xử đàn hồi - dẻo. Ở giai đoạn đầu đá có biểu hiện đàn hồi,
quan hệ giữa ứng suất biến dạng có dạng tuyến tính. Ở giai đoạn sau quan hệ này
chuyển dần sang dẻo khi dần tới phá hoại. Đây là biểu hiện của một số đá nửa cứng
như đá vôi mềm, bột kết, tuff.
Lợi III: ở giai đoạn đầu, đồ thị ứng
suất biến dạng có dạng lõm, sau đó chuyển sang dạng tuyến tính, đặc trưng cho ứng
xử dẻo – đàn hồi. Dạng biểu hiện này thu được ở một số loại đá như cát kết, granite,
diaba, dolomit và đá phiến khi nén mẫu theo phương dọc các mặt phiến.
Loại IV: đường quan hệ ứng suất biến dạng ban đầu tương
tự như ở loại III nhưng có độ dốc lớn hơn, ở giai đoạn cuối quan hệ này thể hiện
đá chuyển dần sang ứng xử dạng dẻo. Dạng
biểu hiện này thu được từ thí nghiệm đá hoa, đá gơ nai. Dạng biểu hiện đặc
trưng là dẻo – đàn hồi – dẻo.
Loại V: đường quan hệ có dạng chữ
S rõ rệt hơn, biểu hiện đặc trưng vẫn là dẻo – đàn hồi – dẻo nhưng sự chuyển trạng
thái diễn ra từ từ. Đây là biểu hiện thu được từ thí nghiệm đá phiến khi nén
theo chiều vuông góc với mặt phiến.
Loại VI: đường quan hệ có phần nhỏ
rất nhỏ ban đầu có dạng tuyến tính, tiếp theo là phi tuyến dạng lồi lên và giảm
dần độ cong, thể hiện sự kết hợp giữa biến dạng dẻo và biến dạng từ biến. Biểu
đồ này thể hiện đặc tính chảy dẻo của vật liệu. Dạng biểu hiện đặc trưng là đàn
hồi – dẻo – từ biến. Đây là biểu hiện thu được từ thí nghiệm đá muối.
Hình 2. Các biểu đồ ứng suất biến
dạng điển hình của đá khi nén một trục. Miller (1965)
Như vậy, với các loại đá khác nhau
thì biểu hiện của đá khi nén cũng khác nhau. Các thông số về độ cứng của đá chỉ
có thể xác định tùy theo điều kiện ứng suất và loại thông số cụ thể. Có thể thấy,
có 4 dạng đường con nén cơ bản, ba biểu đồ III, IV và V đều có dạng hình chữ S.
Trừ loại VI, đa số các đá có biểu hiện tuyến tính ở phần giữa của quan hệ ứng
suất biến dạng. Đặc điểm tuyến tính có thể thấy ở hầu hết các loại đá khi ứng
suất ở quãng 50% giá trị độ bền. Riêng với đá muối, phần tuyến tính ban đầu chỉ
tồn tại trong khoảng ứng suất bằng 10% độ bền của đá.
Từ các nghiên cứu thí nghiệm cho
thấy, biểu hiện biến dạng của các loại đá rất đa dạng và phức tạp. Cũng chính bởi
tính đa dạng này, việc xác định mô đun độ cứng cho đá phải tùy thuộc vào điều
kiện ứng suất khác nhau. Để xác định mô đun độ cứng cho đá, cần tuyến tính hóa
biểu đồ ứng suất biến dạng, khi đó có thể xác định các tham số độ cứng gần đúng khác nhau, như mô đun độ cứng
tiếp tuyến, mô đun độ cứng cát tuyến. Đây cũng là hai cách xác định mô đun đàn
hồi của đá trong khảo sát địa chất công trình.
Tài liệu tham khảo
Miller R. P. (1965) Engineering classification and index properties for intact rock.Thesis, University of Illinois.
No comments:
Post a Comment