Khi đo xác định RQD, để xác định chính xác chỉ số RQD của đá, cần phân biệt giữa các khe nứt tự nhiên và các khe nứt do quá trình khoan, vận chuyển tạo ra. Bởi RQD chỉ xét các khe nứt tự nhiên, nếu chất lượng công tác khoan kém, mẫu vỡ mà nếu xét cả các nứt vỡ do khoan sẽ dẫn tới giá trị RQD nhỏ hơn thực tế. Sau đây là một số dấu hiện phân biệt giữa 2 loại khe nứt.
Nứt tự nhiên
Có dấu vết xi măng ở mặt nứt nẻ, là các khoáng chất được kết
tủa từ chất lỏng di chuyển qua vết nứt.
Các dải biến dạng có vật liệu bị nghiền nát hoặc sét
Có dấu hiệu dịch chuyển tương đối ở 2 bên nứt nẻ, ví dụ như
vết nứt cắt qua vết nứt khác và có lệch (offset) của khe nứt cũ ở 2 bên mặt nứt
nẻ đang xét.
Mặt khe nứt trơn bóng hoặc có có vết xước do dịch chuyển trượt
dọc mặt nứt nẻ.
Các vết nứt được giới hạn ở các lớp/lớp hoặc một số thạch học
nhất định, tức là địa tầng cơ học.
Là mặt phân cách trong đá mà trong đó có các khoáng vật kết
tủa do nhiệt dịch
Mặt phẳng nứt cắt qua hết lõi khoan
Vết nứt có cấu tạo đường khâu (Stylolite) trong đá có chứa vật
chất kết tủa.
Vết nứt mà 2 đầu của vết nứt đều nằm trong lõi khoan.
Nứt vỡ do chấn động (do khoan, do vận chuyển)
Mặt nứt không theo quy tắc hoặc có dạng vỡ vỏ sò
Vết nứt dọc tâm lõi khoan
Vết nứt dạng cánh hoa
Các vết nứt song song
với mặt lớp – thường gặp với đá phiến sét, bị nứt ngay cả khi vận chuyển mẫu
Các vết nứt xoắn ốc do gãy lõi trong quá trình lấy lõi.
Các vết nứt của đá phiến và đá phiến sét hình thành khi lõi
đá bị khô, co ngót.
Các nứt nẻ làm lõi khoan vỡ vụn
No comments:
Post a Comment